0% found this document useful (0 votes)
64 views14 pages

Science Report

carbon footprint research
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd
0% found this document useful (0 votes)
64 views14 pages

Science Report

carbon footprint research
Copyright
© © All Rights Reserved
We take content rights seriously. If you suspect this is your content, claim it here.
Available Formats
Download as DOCX, PDF, TXT or read online on Scribd

Hướng tới Net Zero trong sản xuất nông nghiệp/ cà phê bền vững dựa trên các

phương
pháp định hướng khí thải carbon

Tóm Tắt

Từ khóa

review các phương pháp tính, nhưng thông qua review các phương pháp đó, sẽ nói tới định
hướng giảm khí thải carbon

I. Giới thiệu

I. Giới thiệu

-Trình bày về vai trò sản xuất nông nghiệp bền vững ở thế giới và Việt Nam. Phần này
tìm số liệu đóng góp của nông nghiệp đến GDP thế giới, Việt Nam, có thể tham khảo
Tổng cục thống kê Việt Nam. Phần này nên nhấn mạnh tầm quan trọng của sản xuất
nông nghiệp, và nông nghiệp bền vững, tại sao nên phát triển nông nghiệp bền vững
chẳng hạn...Sinh viên 1:

Theo kết quả nghiên cứu của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc hay Tổ
chức Nông lương Liên Hiệp Quốc (FAO), trong giai đoạn năm 2012 - 2021, tổng sản phẩm
nội địa (GDP) toàn cầu đã tăng từ 68,4 nghìn tỷ USD lên 86,0 nghìn tỷ USD, với tốc độ trung
bình hàng năm là 2,6%. Trong đó, giá trị gia tăng của nông nghiệp toàn cầu tăng đều đặn
2,8% hàng năm từ 2,9 nghìn tỷ USD vào năm 2012 lên 3,7 nghìn tỷ USD vào năm 2021. Giá
trị này dường như không bị ảnh hưởng bởi tác động của đại dịch COVID-19 vào năm 2020.
Đóng góp của ngành Nông nghiệp vào GDP toàn cầu dao động từ 4,18% năm 2012 lên
4,31% năm 2021 (FAO, 2023)

Dữ liệu trên cho thấy nông nghiệp rất quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế: chiếm hơn 4%
GDP toàn cầu và ở một số nước kém phát triển nhất, nông nghiệp có thể chiếm hơn 25%
GDP, đồng thời cung cấp nguồn lương thực, thu nhập chính, và việc làm cho người dân khu
vực nông thôn của họ (World Bank, 2023).

Mặt khác, một vấn đề nhức nhối phải đề cập tới là ngành Nông nghiệp lại là một trong những
nguyên nhân chính gây suy thoái môi trường (Raihan et al., 2023a). Nông nghiệp có liên
quan đến lượng khí thải CO2 và được coi là cực kỳ nhạy cảm với biến đổi khí hậu (Raihan &
Tuspekova, 2022a). Các hoạt động của Lĩnh vực Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Sử dụng đất
mục đích khác nhau (AFOLU) và Lĩnh vực Sử dụng đất, Thay đổi sử dụng đất và Lâm
nghiệp (LULUCF) chiếm khoảng 1/5 lượng phát thải CO2 hàng năm trên toàn cầu, khiến đây
trở thành nguồn phát thải CO2 lớn thứ hai và nhân tố chính gây ra biến đổi khí hậu toàn cầu
(IPCC, 2014). Theo báo cáo mới nhất của Uỷ ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu
(IPCC), vào năm 2019, ước tính khoảng 22% lượng khí nhà kính (KNK) toàn cầu bắt nguồn
từ AFOLU (Calvin et al., 2023). Bên cạnh đó, canh tác nông nghiệp theo phương pháp truyền
thống phụ thuộc nhiều vào phân bón hóa học sẽ dẫn đến các vấn đề môi trường nghiêm trọng
(Nguyễn & Lê, 2023). Từ những thực trạng đáng quan ngại, kinh tế nông nghiệp bền vững
luôn được xem xét là một vấn đề thời sự bởi tính cấp thiết trong sự phát triển chung của kinh
tế-xã hội nói chung.

Đối với Việt Nam, nông nghiệp đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia, chiếm
13.2% tổng kim ngạch xuất khẩu (Kanamori, 2022). Ngành nông nghiệp Việt Nam đã có
những bước phát triển vượt bậc trong 25 năm qua, nhiều mặt hàng nông sản như rau quả, gạo,
cà phê, hạt điều, hồ tiêu, thủy sản, gỗ và sản phẩm gỗ… là những mặt hàng nông sản xuất
khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay, đã đáp ứng ngày càng tốt hơn tiêu chuẩn chất lượng của
các thị trường, ngay cả những thị trường nhập khẩu yêu cầu cao về tiêu chuẩn kỹ thuật, chất
lượng. Nhiều mặt hàng giữ được vị thế quan trọng trên thị trường thế giới. Hơn nữa, nông
nghiệp là ngành tạo việc làm hàng đầu ở Việt Nam trong tất cả các thành phần kinh tế, thu
hút hơn 18,8 triệu người Việt Nam vào năm 2019 (Nguyen et al., 2021). Trong đó, cà phê
Việt Nam được xem là một trong những mặt hàng xuất khẩu quan trọng đối với thế giới,
đứng thứ hai thế giới về tổng sản lượng cà phê xuất khẩu với 1.78 triệu tấn và có giá trị kim
ngạch lên đến 4.06 tỷ USD (Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam, 2023).

Tuy nhiên, theo Nhóm Ngân hàng Thế giới (World Bank) trong “Báo cáo quốc gia về khí hậu
và phát triển cho Việt Nam”, nông nghiệp là ngành có lượng phát thải KNK lớn thứ hai ở
Việt Nam, chiếm khoảng 19% tổng lượng phát thải năm 2020. Đối với cà phê, mặt hàng này
cũng đồng thời là nguồn phát thải cacbon khổng lồ thông qua việc sử dụng nước, phân bón,
hóa chất nông nghiệp và các nguồn năng lượng khác trong quá trình sản xuất và chế biến cà
phê. Hằng năm, ngành sản xuất cà phê Robusta của Việt Nam phát thải khoảng 800 nghìn tấn
CO2, các trang trại trồng cà phê độc canh là nguồn phát thải cacbon lớn, mỗi năm giải phóng
0,37 tấn CO2 trên 1 tấn cà phê, góp phần không nhỏ vào biến đổi khí hậu Việt Nam và toàn
cầu (Hin, 2023) .Vì thế, việc áp dụng các biện pháp phát triển bền vững đối với ngành sản
xuất cà phê Việt Nam là cần thiết nhằm giảm lượng khí thải cacbon trong sản xuất cà phê nói
riêng và sản xuất nông nghiệp nói chung. Cũng chính vì vậy, xây dựng nền kinh tế nông
nghiệp bền vững được coi là xu hướng tất yếu, đặc biệt là trong canh tác cây cà phê, bởi đây
là một trong những cây trồng chủ lực có lượng xuất khẩu cao.

-Sau đó đề cập đến khái niệm netzero trong sản xuất nông nghiệp và định hướng
netzero ở thế giới và Việt Nam trong tương lai. Trình bày tầm quan trọng giữa netzero
của phát thải cacbon đối với sản xuất nông nghiệp bền vững. Trình bày sơ qua định
hướng netzero của VN và thế giới, em đính kèm quy định hay nghị định về netzero
trong sản xuất nông nghiệp..... sinh viên 2

Theo Uỷ ban Liên chính phủ về Biến đổi Khí hậu (IPCC), Phát thải ròng bằng không (Net
Zero Emission, viết tắt: NZE) là “Khi lượng phát thải CO2 do con người gây ra được cân
bằng trên toàn cầu bằng cách loại bỏ CO2 trong một khoảng thời gian nhất định”. Khi có
nhiều loại KNK tham gia, việc định lượng lượng NZE phụ thuộc vào chỉ số khí hậu được
chọn để so sánh lượng phát thải của các loại KNK khác nhau (như chỉ số Tiềm năng nóng lên
toàn cầu, chỉ số Tiềm năng thay đổi nhiệt độ toàn cầu và các múi giờ khác nhau được chọn)
(Loveday et al., 2022). Chính phủ, các nhà khoa học và những người đứng đầu ngành công
nghiệp trên thế giới đều đồng ý rằng hành động khẩn cấp là cần thiết để tránh tình trạng nóng
lên toàn cầu. Sự đồng thuận ở đây chính là thế giới phải hạn chế mức tăng nhiệt độ trung bình
toàn cầu ở mức 1,5°C, như mục tiêu đặt ra trong Thỏa thuận Paris, bằng cách giảm gần một
nửa lượng khí thải cacbon (CO2) vào năm 2030 và đạt mức “0” vào năm 2050.

Năm 2015, Thỏa thuận Paris về BĐKH được 192 quốc gia thông qua, tại điểm 4.1 nhấn mạnh
“các bên tham gia hướng đến đỉnh phát thải khí nhà kính (KNK) càng sớm càng tốt… như
vậy sẽ đạt được cân bằng giữa các nguồn phát thải và loại bỏ bởi các bể hấp thụ KNK vào
giữa thế kỷ 21”. Theo thống kê của Net Zero Tracker, đến tháng 6 năm 2023, hiện đang có
149 quốc gia tuyên bố/cam kết về phát thải ròng bằng “0”, trong đó chủ yếu cam kết NZE
vào năm 2050, mặc dù tốc độ tăng trưởng số lượng các quốc gia cam kết NZE đã có xu
hướng chậm lại, nhưng số lượng các công ty với mục tiêu NZE lại tăng lên với tốc độ khá
nhanh, khoảng 929 công ty được ghi nhận.

Để thực hiện được mục tiêu NZE, các quốc gia tùy vào điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
đã xác định lĩnh vực ưu tiên giảm phát thải KNK và đưa ra các hành động giảm nhẹ cụ thể.
Chính phủ Anh triển khai hỗ trợ người dân phát triển canh tác nông nghiệp cacbon thấp thông
qua các Quỹ Đầu tư về thiết bị, công nghệ và hạ tầng nhằm tăng doanh thu, mang lại lợi ích
môi trường và giảm phát thải khí nhà kính. Ngoài ra, Chính phủ ưu tiên đầu tư cho các hoạt
động giảm phát thải khí nhà kính khác hạn chế sử dụng than bùn, trồng rừng, thu gom, phân
loại và xử lý rác thải tại hộ gia đình. Mặt khác, chuyển đổi sang mức trung hòa ròng đòi hỏi
những thay đổi đáng kể ở cấp độ xã hội, công nghiệp, và các đổi mới công nghệ để đáp ứng
các mục tiêu phát thải trung hòa ròng (Miller, 2020).

Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề nóng lên toàn cầu, Việt Nam đã chủ động gửi Ban thư ký
UNESCO tại Hội nghị COP21 Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định INDC (INDC–
Intended Nationally Determined Contributions) vào năm 2015. Việt Nam thể hiện cam kết cắt
giảm phát thải của mình tới năm 2030 thông qua các mục tiêu tự cắt giảm 8% so với kịch bản
phát thải thông thường (BAU) quốc gia và lên tới 25% với sự hỗ trợ quốc tế. Với việc tham
gia Thỏa thuận Paris và ban hành Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về BĐKH (Quyết
định số 2053/QĐ–TTg ngày 28/10/2016 của Thủ tướng Chính phủ), INDC của Việt Nam đã
chính thức trở thành Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) (Văn Hiếu & Hoàng Nam,
2021). Trong NDC năm 2022, Việt Nam đã đưa ra mục tiêu đạt được phát thải ròng “0” vào
năm 2050 (Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, 2022). Chính phủ Việt Nam đã có những
hành động cụ thể nhằm thực hiện được mục tiêu này.

Tại Hội nghị lần thứ 26 về biến đổi khí hậu của Liên Hợp Quốc (COP 26) năm 2021, Thủ
tướng Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết Net Zero cho Việt Nam vào năm 2050, cùng với
các quy định kiểm kê bắt buộc được áp dụng lên các doanh nghiệp ở Việt Nam, việc định
lượng được khí thải cacbon trong quá trình canh tác cà phê để đưa ra giải pháp nhằm thể hiện
sự cam kết đối với mục tiêu chung hướng tới Net Zero (Luu, 2023).
Tại Việt Nam, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 150/QĐ-TTg vào ngày 28 tháng 01 năm
2022 về Phê duyệt Chiến lược phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 -
2030, tầm nhìn đến năm 2050. Theo đó, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 là phát triển
nền nông nghiệp xanh, thân thiện môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm ô nhiễm
môi trường nông thôn, phấn đấu giảm phát thải nhà kính 10% so với năm 2020. Trong Nghị
định này có những định hướng và nhiệm vụ cụ thể cho sự phát triển của nền nông nghiệp bền
vững như (1) Đổi mới phương thức quản lý, sử dụng và kinh doanh vật tư nông nghiệp hướng
tới nền sản xuất nông nghiệp chuyên nghiệp, có trách nhiệm, tăng cường sử dụng phân bón
hữu cơ, phân bón vi sinh , thuốc bảo vệ thực vật sinh học,... (2) Tăng cường sử dụng
(Nguyen, Lu, & Nguyen, 2021) nguyên liệu vi sinh hoặc hữu cơ, áp dụng kỹ thuật thông
minh, kinh tế tuần hoàn để tiết kiệm đầu vào, phát triển mạnh tiềm năng sản xuất năng lượng
tái tạo kết hợp nông nghiệp để giảm bớt nguyên liệu hóa thạch, giảm phát thải cacbon.

Năm 2022, chính phủ Việt Nam đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP về “quy định
giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ôzôn”. Nghị định này đưa ra các quy định rõ
ràng nhằm phát triển bền vững thị trường cacbon ở Việt Nam, cũng như chỉ định giai đoạn
chủ điểm năm 2028 sẽ chính thức vận hành sàn giao dịch tín chỉ cacbon. Việc đưa ra quyết
định này sẽ dẫn đến một thử thách rằng, từ năm 2028, nếu các nhà máy và doanh nghiệp
không thể giảm thiểu lượng phát thải cacbon của họ ra môi trường, họ sẽ phải mua các tín chỉ
cacbon để bù đắp lại lượng phát thải đó. Các nhà máy và doanh nghiệp không tuân thủ theo
Nghị định này có thể sẽ bị phạt hành chính (Binh, 2023).

Phó Thủ tướng Lê Văn Thành đã ký Quyết định số 896/QĐ-TTg ngày 26/7/2022 phê duyệt
“Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050”. Một trong hai mục tiêu
chính của Chiến lược nhấn mạnh về việc giảm phát thải khí nhà kính theo mục tiêu phát thải
ròng bằng “0” vào năm 2050, đóng góp tích cực và trách nhiệm với cộng đồng quốc tế trong
bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất; tận dụng cơ hội từ ứng phó biến đổi khí hậu để chuyển dịch
mô hình tăng trưởng, nâng cao sức chống chịu và cạnh tranh của nền kinh tế. Cụ thể, mục
tiêu mong muốn được chia theo từng giai đoạn: (1) Đến năm 2030: bảo đảm tổng lượng phát
thải khí nhà kính quốc gia giảm 43,5% so với kịch bản phát triển thông thường (BAU). (2)
Đến năm 2050: bảo đảm tổng lượng phát thải khí nhà kính quốc gia đạt mức phát thải ròng
bằng “0”; lượng phát thải đạt đỉnh vào năm 2035, sau đó giảm nhanh. Trong đó: Lĩnh vực
nông nghiệp giảm 63,1%, lượng phát thải không vượt quá 56 triệu tấn CO2tđ; lĩnh vực lâm
nghiệp, sử dụng đất giảm 90% lượng phát thải, tăng 30% lượng hấp thụ cacbon, tổng lượng
phát thải và hấp thụ đạt ít nhất -185 triệu tấn CO2tđ.

-Trình bày đến các phương pháp định lượng khí thải carbon hiện nay, ở thể giới và VN.
Phần này cũng đề cập đến vai trò hay tầm quan trọng của phương pháp định lượng
carbon để hướng đến netzero, ví dụ như từ phương pháp tính toán thì có thể biết yếu tố
nào cần can thiệp để giúp giảm thiểu....Nên trích dẫn tài liệu tham khảo khi đề cập
phương pháp tính sinh viên 3

M Để đạt mục tiêu phát thải ròng bằng không, thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đã và
đang áp dụng những phương pháp giảm khí nhà kính trong nông nghiệp. Việc áp dụng
phương pháp Đánh giá vòng đời (Life cycle assessment - LCA) là một công cụ hữu ích để hỗ
trợ việc giảm phát thải nhà kính trong nông nghiệp. LCA có thể sử dụng để tính toán lượng
khí thải nhà kính trong hoạt động sản xuất nông nghiệp thông qua các thông số kỹ thuật như
IPCC hay PAS.

Đánh giá vòng đời (Life cycle assessment - LCA)

Phương pháp đánh giá vòng đời được dùng để tính toán tác hại môi trường trong toàn bộ
vòng đời của một quy trình hoặc sản phẩm, có thể được sử dụng để thực hiện đánh giá kỹ
lưỡng về các khía cạnh kinh tế, năng lượng và môi trường. Một số chỉ số môi trường, chẳng
hạn như lượng khí thải cacbon, hiện được biểu thị bằng lượng khí thải carbon dioxide (CO2).
(Büsser and Jungbluth 2009; Hassard et al. 2014; Hergoualćh et al. 2008; Hicks 2017;
Humbert et al. 2009; Killian et al. 2013; Noponen et al. 2012; Salomone 2003; Verchot et al.
2006)1.

Trong LCA, ISO 14040:2006 hỗ trợ cung cấp các giá trị tiêu chuẩn đầu vào bao gồm năng
lượng, nguyên liệu thô, đầu vào phụ trợ và các đầu vào vật chất khác cho quá trình tính khí
thải nhà kính. Đối với quá trình trồng trọt, đầu vào tiềm năng có thể được chia thành phân
bón, thuốc trừ sâu, năng lượng mặt trời, xăng dầu, điện (Harsono et al. 2021)2 hoặc năng
lượng, phân bón, thuốc trừ sâu, nước, cơ sở hạ tầng (Vinyes et al. 2015)3.

Các nhà hoạch định chính sách, nhà sản xuất và người tiêu dùng có thể sử dụng dữ liệu đánh
giá vòng đời (LCA) để đưa ra quyết định khi lựa chọn hàng hóa và phương pháp sản xuất bền
vững với môi trường (Vinyes, E., 2015). Các công ty có thể kiểm tra xem chính sách sẽ ảnh
hưởng đến môi trường như thế nào bằng cách sử dụng đánh giá vòng đời (LCA), cho phép họ
xem chính sách sẽ ảnh hưởng đến họ như thế nào trong nhiều tình huống giả định (Plevin,
Delucchi, & Creutzig, 2014; Quispe, Vázquez-Rowe, Kahhat, Arena, & Suppen, 2016, 2017;
Sala, Reale, Cristobal Garcia, Marrelli, & Pant, 2016)4

Tuy nhiên, do tính linh hoạt của phương pháp đánh giá vòng đời, cách tiếp cận và áp dụng
của nó có thể được diễn giải khác nhau và thiếu sự tiêu chuẩn hóa trong việc tính toán lượng
khí thải cacbon. Vì vậy nên PAS 2050 được phát triển để đáp lại những phê bình cho ISO
14040 và 14044 (Plassmann et al., 2010)5.

Thông số kỹ thuật công khai (Publicly Available Specification - PAS)

PAS 2050 thiết lập một phương pháp tiêu chuẩn hóa để đánh giá lượng khí thải cacbon của
sản phẩm, cung cấp cho các tổ chức một cách tiếp cận nhất quán để đánh giá lượng phát thải
khí nhà kính trong vòng đời của sản phẩm. Nó làm rõ, đơn giản hóa và điều chỉnh các

1 [Link]
2 [Link]
3 [Link]
4 [Link]
5 [Link]
phương pháp tiếp cận LCA hiện có để đo cụ thể lượng khí thải cacbon của sản phẩm trong
suốt vòng đời của chúng (Sinden, G., 2009)6

Trong khi các sáng kiến giao thức khí nhà kính và ISO 14064 bao gồm các hướng dẫn để tạo
ra bản kiểm kê khí nhà kính chính xác và chính trực cho công ty thì thông số kỹ thuật công
khai 2050 xác định đánh giá rõ ràng hơn lượng khí thải cacbon qua việc cung cấp khuôn khổ
tiêu chuẩn cùng với các nguyên tắc và yêu cầu trong việc tính khí thải nhà kính (Bender, P.,
2012; PAS 2050).7 8

PAS 2050 được Viện Tiêu chuẩn Anh (BSI) xuất bản vào tháng 10 năm 2008 và được tài trợ
bởi Carbon Trust và Bộ Môi trường, Thực phẩm và Nông thôn Vương quốc Anh nhằm đáp
ứng nhu cầu ngày càng tăng về truyền đạt giá trị dấu chân cacbon trên sản phẩm (Bender, P.,
2012).

IPCC

Các quốc gia tuân theo tiêu chí kiểm kê khí thải nhà kính do IPCC công bố và báo cáo lượng
khí thải cacbon của họ cho UNFCCC. Phương pháp luận ba cấp được áp dụng để thực hiện
kiểm kê quốc gia, đồng thời đưa ra các giá trị mặc định và công thức tính phù hợp để áp dụng
cho từng cấp độ theo hướng dẫn của IPCC (IPCC, 2006).9

Lượng phát thải khí nhà kính được đo bằng lượng CO2 tương đương (CO2-e) tính đến các
yếu tố sau: (1) việc sản xuất phân bón và phát thải N2O từ việc sử dụng phân bón theo mô
hình thực nghiệm được xây dựng từ hơn 800 bộ dữ liệu toàn cầu đã tinh chỉnh IPCC Cấp I
ước tính bằng cách bao gồm khí hậu, kết cấu đất, cacbon trong đất và độ pH của đất; (2) sản
xuất thuốc trừ sâu; (3) sử dụng nhiên liệu và điện; (4) lượng khí thải mêtan từ nước thải sinh
ra trong quá trình lên men và tách bột giấy; (5) Sự phân hủy rác thải và cắt tỉa trên đất, cũng
như lượng khí thải vào đất xung quanh (Van Rikxoort, H., 2014).10

Hướng dẫn của IPCC về kiểm kê khí nhà kính quốc gia yêu cầu phải bao gồm cả lượng khí
thải không bao gồm CO2 từ vật nuôi, phân và đất của chúng. Những phát thải này đặc biệt
liên quan đến nông nghiệp CF (De Klein et al., 2006). Phát thải gián tiếp và trực tiếp từ việc
bổ sung, lắng đọng và lọc N được đưa vào khi tính toán lượng phát thải oxit nitơ từ đất
(Noponen, M. R., 2012).11

6 [Link]
7 [Link]
8[Link]
repid=rep1&type=pdf&doi=2af2bd5981a5a49dc271a794f9b96bea1b9ba3b1
9 [Link]
10 [Link]
11 [Link]
-Chỉ ra sự cần thiết phải có các nghiên cứu tổng hợp phương pháp định lượng khí thải
cacbon. Bài viết của mình là review các nghiên cứu đi trước về phương pháp định lượng
cacbon để hướng tới netzero nên cần làm rõ tầm quan trọng của bài báo hay đóng góp của
bài báo của mình đến thực tiễn hay lý thuyết. Kiểu như nghiên cứu này sẽ rất có ích để có
thể hỗ trợ hay hướng dẫn các doanh nghiệp hay chính phủ có chính sách phù hợp để
hướng tới netzero chẳng hạn . Vì thế em cần bổ sung các nội dung dưới đây: sinh viên 4

+Trích dẫn 1 số nghiên cứu trong nước và quốc tế......về định lượng cacbon và đề xuất
đến netzero, hay giảm thiểu cacbon và nông nghiệp bền vững.

+Thiếu các nghiên cứu review tổng hợp để đo lường cacbon footprint, tìm xem có cái
bài review nào có cùng ý tưởng không,nếu có thì chỉ ra họ làm gì, để mình chỉ ra mình
làm khác họ như thế nào

+Do đó nghiên cứu này rất cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và lý thuyết

Năm 2021, Việt Nam có 20 tỉnh trồng cà phê với tổng diện tích đạt 710,59 ngàn ha, tăng
khoảng 67,37 ngàn ha so với năm 2015, trong đó Tây Nguyên là vùng sản xuất cà phê chính
của cả nước. Năng suất cà phê năm 2021 đạt 28,2 tạ/ha và sản lượng cà phê nhân ước đạt
1,816 triệu tấn. Đối với cà phê Robusta chủ yếu được trồng tại các tỉnh phía Nam như Đắk
Lắk, Lâm Đồng, Đắk Nông và Gia Lai. Năng suất biến thiên tùy vùng và tùy năm, trung bình
khoảng 2,5 tấn/ha. Do sản xuất trên quy mô lớn như vậy nên quá trình sản xuất cà phê là một
trong những tác nhân góp phần phát thải khí nhà kính toàn cầu. Tổng lượng phát thải các bon
từ sản xuất cà phê Robusta ở trang trại là 1,52 tấn CO2e trên mỗi tấn cà phê năm 2016-2017
và 1,26 tấn CO2e trên mỗi tấn cà phê năm 2017/18, trung bình 1,39 tấn CO2e trên mỗi tấn cà
phê trong vòng hai năm (43 FACTORY, 2018).

Nghiên cứu của PCF Pilotprojekt Deutschland (2008) ước tính rằng 55% lượng khí thải
cacbon trong sản xuất cà phê được tạo ra trong quá trình canh tác và chế biến tại trang trại và
30% trong quá trình tiêu thụ, 15% còn lại là do vận chuyển, chế biến và xử lý chất thải. Các
nghiên cứu đã đồng ý chung rằng các giai đoạn trồng trọt và tiêu thụ có tác động môi trường
lớn nhất (Arzoumanidis et al.,2017; Coltro et al., 2006; Dom ínguez-Patiño et al.,, 2014;
Humbert et al., 2009; Killian et al., 2013; PCF Pilotprojekt Deutschland, 2008).

Dựa theo kết quả nghiên cứu của Nab (2020), canh tác cà phê thông thường ở Việt Nam có
lượng khí thải cacbon tương đối cao (16.04 kg CO2e kg−1 cà phê xanh/ tươi), tiếp theo sau đó
là canh tác cà phê hữu cơ với lượng khí thải cacbon thấp hơn khá nhiều (3.64 kg CO2e kg−1
cà phê xanh/ tươi). Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu sơ cấp chủ yếu được thu thập tại các
trang trại và nhà máy cà phê, sau đó được đối chiếu với kết quả từ tài liệu học thuật được
bình duyệt để ước tính yếu tố đầu vào, nên phương pháp tính này có những yếu tố đầu vào
chưa thực sự rõ ràng và phù hợp với phương thức canh tác của toàn bộ các khu vực trồng cà
phê nhiều nhất tại Việt Nam.
Một nghiên cứu của Humbert et al. (2009) đã tiến hành đánh giá cà phê ở Việt Nam; tuy
nhiên, quy mô của nghiên cứu được tiến hành vẫn chỉ ở mức độ nhỏ.

Một nghiên cứu khác đánh giá tác động khí hậu của việc sản xuất cà phê Robusta thông qua
ước tính trữ lượng cacbon và phát thải khí nhà kính (GHG) tại các trang trại cà phê thâm canh
có bóng râm và không có bóng râm của khu vực Tây Nguyên, Việt Nam (Duy, 2018). Tuy
nhiên nghiên cứu này chưa có đề cập và đánh giá cụ thể tác động của các loại phân bón hữu
cơ và vô cơ trong giai đoạn canh tác cà phê. Nhóm tác giả đã có đề xuất ưu tiên nghiên cứu
sâu hơn để tìm hiểu mối quan hệ giữa lợi nhuận giảm dần của năng suất với số lượng, loại và
thời điểm phân bón vô cơ gia tăng để đưa ra ngưỡng hợp lý về tỷ lệ bón phân vô cơ và từ đó
giảm số lượng phù hợp cũng như phát thải khí nhà kính mà không ảnh hưởng đến năng suất
cà phê.

Mặc dù là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới sau Brazil và là nước sản xuất cà phê
Robusta hàng đầu thế giới, Việt Nam vẫn thiếu nghiên cứu về tác động của cà phê đối với
môi trường (BBC News, 2014; FAO, 2017). Hơn nữa, trong khi hiểu rõ được tầm quan trọng
của cà phê ở Việt Nam và với sự hiện diện của các trung tâm nghiên cứu cùng hỗ trợ cho
người trồng cà phê, hiện vẫn chưa có nghiên cứu tổng hợp phương pháp định lượng cacbon
rõ ràng hướng tới Net Zero về sản xuất cà phê ở Việt Nam, bao gồm các giai đoạn sản xuất
và dư lượng khác nhau. Do đó, bài viết này nhằm mục đích thực hiện kiểm kê chi tiết và toàn
diện về sản xuất cà phê ở Việt Nam, chú trọng chuyên sâu trong giai đoạn canh tác cà phê, để
đề xuất ra phương pháp định lượng phát thải KNK phù hợp với tình hình Việt Nam hiện tại.
Nghiên cứu sẽ bước đầu tổng hợp các nghiên cứu có công bố phương pháp ước tính phát thải
cacbon trong giai đoạn sản xuất cà phê hướng tới Net Zero, sau đó sẽ đề xuất những giải pháp
nhằm hướng tới Net Zero trong sản xuất nông nghiệp bền vững tại Việt Nam.

-Nhấn mạnh lần nữa tầm quan trọng của định lượng phát thải cacbon để Hướng tới Net
Zero trong sản xuất nông nghiệp bền vững. Phần này làm rõ đóng góp của nghiên cứu
của mình đến cho doanh nghiệp, chính phủ như thế nào. Ví dụ như chính phủ và doanh
nghiệp khi đọc bài mình về tổng hợp các nghiên cứu định lượng cacbon thì họ sẽ thu thập
được gì hay hỗ trợ họ được gì....Em tham khảo các nghiên cứu review để xem cách viết
đoạn này nhé. sinh viên 5

Kinh tế và nông nghiệp Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, dẫn đến mức tiêu thụ năng lượng
(Phan A et al., 2020) và lượng phát thải CO2 ngày càng cao. Hiểu được mức độ nhạy cảm
của Việt Nam trước biến đổi khí hậu ngày càng trở nên quan trọng hơn đối với các chính phủ
đang cố gắng dung hòa giữa giảm thiểu biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Ho Bang Q
et al. (2020) cho rằng nếu không thể ngăn chặn mối quan hệ chức năng giữa tài nguyên thiên
nhiên và các quá trình phát triển hiện đại thì thiệt hại về môi trường chắc chắn sẽ xảy ra.
Những vấn đề như vậy phổ biến hơn ở các nước đang phát triển như Việt Nam, nơi tăng
trưởng kinh tế, an ninh năng lượng, giá trị gia tăng nông nghiệp và tính bền vững môi trường
đều quan trọng. Vì vậy, nghiên cứu này nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế, sử dụng năng lượng, giá trị gia tăng nông nghiệp và phát thải CO2 ở Việt
Nam, đóng góp vào việc đưa Việt Nam tiến tới một nền kinh tế bền vững và góp phần đáng
kể vào nỗ lực toàn cầu về giảm thiểu khí thải cacbon và ứng phó với biến đổi khí hậu.

Việc hướng tới Net Zero trong sản xuất nông nghiệp đòi hỏi sự hợp tác giữa các bên liên
quan, bao gồm chính phủ, các tổ chức nông nghiệp, doanh nghiệp và cộng đồng nông dân.
Cần thiết có các chính sách và quy định rõ ràng để khuyến khích và hỗ trợ việc định lượng
phát thải cacbon hướng đến nông nghiệp bền vững. Đồng thời, việc tạo ra các cơ chế kích
thích và khuyến khích doanh nghiệp nông nghiệp áp dụng các biện pháp giảm thiểu phát thải
cacbon là vô cùng cần thiết. Dựa vào phương pháp định lượng phát thải cacbon của bài
nghiên cứu, các hộ nông dân, doanh nghiệp và chính phủ có thể tạo ra một cơ sở dữ liệu cần
thiết để đo lường và theo dõi sự tiến bộ trong việc giảm lượng khí thải.

Sản xuất nông nghiệp bền vững và có khí thải cacbon thấp đang trở thành một yêu cầu ngày
càng quan trọng trong thương mại quốc tế. Người tiêu dùng, bên cạnh đó, ngày càng yêu cầu
các công ty cung cấp thông tin về lượng khí thải của các sản phẩm và dịch vụ mà họ mua và
tìm cách giảm dấu chân cacbon của chính họ (Thúy, 2023). Các quốc gia xuất khẩu nông sản,
bao gồm Việt Nam, cần đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu về tính bền vững và
giảm thiểu tác động môi trường. Doanh nghiệp có thể xác định các biện pháp cụ thể để giảm
lượng khí thải cacbon trong quá trình canh tác cà phê (ví dụ: tối ưu hóa sử dụng phân bón,
quản lý chất thải hữu cơ, ứng dụng kỹ thuật canh tác hiệu quả về năng lượng, và sử dụng các
công nghệ xanh), từ đó hiểu rõ hơn về tác động môi trường của mình và xác định các nguồn
phát thải chính. Nghiên cứu định lượng khí thải cacbon có thể giúp doanh nghiệp cà phê
truyền thông và quảng bá về cam kết bền vững của họ đến khách hàng và đối tác kinh doanh.
Thông qua việc công khai và chứng minh việc giảm khí thải cacbon trong quá trình sản xuất,
doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị thương hiệu và thu hút những khách hàng quan tâm đến sản
phẩm cà phê bền vững. Việc quản lý khí thải hợp lý không chỉ giảm tác động môi trường mà
còn có thể giúp tăng cường hiệu suất và giảm chi phí sản xuất (Sala et al., 2017), là cơ hội để
các công ty phát triển lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị thương hiệu cho doanh nghiệp.

Bằng cách áp dụng những phương pháp này, doanh nghiệp có thể xác định và đo lường lượng
khí thải cacbon của quá trình sản xuất và hoạt động kinh doanh của mình. Dựa trên thông tin
này, doanh nghiệp có thể phát triển chiến lược quản lý môi trường nhằm giảm thiểu khí thải
cacbon, tăng cường hiệu suất và tiết kiệm tài nguyên. Các công ty từ đó có thể thu hút các
nhà cung cấp của họ để quản lý lượng phát thải khí nhà kính theo cách tích hợp và hợp tác
hơn, với một kế hoạch chung và nỗ lực tập trung để tối ưu hóa hiệu quả. Điều quan trọng nữa
là phải xem xét việc thúc đẩy nâng cấp kỹ thuật ở cấp độ người sản xuất, chẳng hạn như cải
thiện phương pháp quản lý của họ thông qua các chương trình đào tạo để họ tối ưu hóa việc
sử dụng đầu vào ở cấp độ trang trại.

Bên cạnh đó, chính phủ có thể sử dụng kết quả của nghiên cứu này để phát triển các chính
sách và quy định liên quan đến nông nghiệp bền vững. Thông tin về lượng khí thải cacbon từ
các ngành công nghiệp và các hoạt động khác nhau có thể giúp chính phủ nhận thức rõ hơn
về tình hình phát thải cacbon và tác động của nó đến biến đổi khí hậu. Điều này có thể hỗ trợ
việc xây dựng chính sách môi trường hiệu quả, định hướng đầu tư vào các ngành công nghiệp
sạch hơn và khuyến khích các biện pháp giảm thiểu khí thải cacbon.

Việc nghiên cứu và áp dụng phương pháp định lượng khí thải cacbon trong canh tác cà phê
giúp chính phủ Việt Nam thúc đẩy xuất khẩu cà phê bền vững. Trên thị trường quốc tế, ngày
càng có nhiều nhà nhập khẩu quan tâm đến tính bền vững và giảm khí thải cacbon của sản
phẩm (Xuân, 2023). Chính phủ có thể sử dụng kết quả nghiên cứu này để xây dựng chứng chỉ
và tiêu chuẩn xuất khẩu, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho cà phê Việt Nam trên thị trường quốc
tế.

REF:

Anh, P., Thi, N., Ngan, K., & Huong, T. (2020). Vietnam’s National Energy
Development. In International Journal of Economics and Business Administration:
Vol. VIII (Issue 4).

Anh, X. (2023). "Chuyển đổi sản xuất xanh tạo lợi thế phát triển lâu dài cho doanh
nghiệp". Báo Tin Tức. [Link]
[Link]

BBC News (2014). How Vietnam became a cofee giant. Chris Summers.
[Link] Accessed 25 June 2018

Bender, P., Coughlan, B., Nawn, C., & White, C. (2012). An Interactive Qualifying
Project Proposal. [Link]
repid=rep1&type=pdf&doi=2af2bd5981a5a49dc271a794f9b96bea1b9ba3b1

Büsser S, Jungbluth N (2009) The role of flexible packaging in the life cycle of coffee
and butter. Int J Life Cycle Assess 14:80–91

Calvin, K., Dasgupta, D., Krinner, G., Mukherji, A., Thorne, P. W., Trisos, C., Romero,
J., Aldunce, P., Barrett, K., Blanco, G., Cheung, W. W. L., Connors, S., Denton, F.,
Diongue-Niang, A., Dodman, D., Garschagen, M., Geden, O., Hayward, B., Jones, C.,
… Ha, M. (2023). IPCC, 2023: Climate Change 2023: Synthesis Report. Contribution
of Working Groups I, II and III to the Sixth Assessment Report of the Intergovernmental
Panel on Climate Change [Core Writing Team, H. Lee and J. Romero (eds.)]. IPCC,
Geneva, Switzerland. [Link]

Dấu chân cacbon của cà phê Robusta Việt Nam NGUỒN PHÁT HAY NGUỒN THU?
(n.d.).

De Klein, C., Novoa, R.S.A., Ogle, S., 2006. N2O emissions from managed soils and
CO2 emissions from lime and urea application. In: IPCC Guidelines for National
Greenhouse Gas Inventories, Chapter 11, IGES, Japan.
FAO. (2023). Gross domestic product and agriculture value added 2012–2021.
[Link]

Food and agriculture information about Vietnam (2017) Food and agriculture
organization of the Unites Nation (FAO). Global Agriculture Information Network
(GAIN). Retrieved from [Link] [Link]/Recent%20GAIN
%20Publications/Cofee%20Ann ual_Hanoi_Vietnam_6-[Link]. Accessed 29
June 2018

Harsono, S. S., Wibowo, R. K. K., & Supriyanto, E. (2021). Energy Balance And Green
House Gas Emisson On Smallholder Java Coffee Production At Slopes Ijen Raung
Plateau Of Indonesia. Journal of Ecological Engineering, 22(7), 271–283.
[Link]

Hassard HA, Couch MH, Techa-erawan T, McLellan BC (2014) Product carbon


footprint of alternative products in Japan. J Clean Prod 73: 310–321

Hergoualćh K, Skiba U, Harmad J-M, Hénault C (2008) Fluxes of greenhouse gases


from Andosols under coffee in monoculture or shaded by Inga densiflora in Costa
Rica. Biogeochemistry 89:329–345

Hicks AL (2017) Environmental implications of consumer convenience. Coffee as a


case study. J Ind Ecol 22:79–91

Ho, B. Q., Vu, K. H. N., Nguyen, T. T., Nguyen, H. T. T., Ho, D. M., Nguyen, H. N., &
Nguyen, T. T. T. (2020). Study loading capacties of air pollutant emissions for
developing countries: a case of Ho Chi Minh City, Vietnam. Scientific Reports,
10(1). [Link]

Humbert S, Loerincik Y, Rossi V, Margni M, Jolliet O (2009) Life cycle assessment of


spray dried soluble coffee and comparison with alternatives (drip filter and capsule
espresso). J Clean Prod 17:1351– 1358

Kanamori, N. (2022, February 16). 479. World Bank Report on Vietnam’s Economic
Growth ― Addressing Climate Change Can’t Wait. Japan International Research Center
for Agricultural Sciences. [Link]

Killian B, Rivera L, Soto M, Navichoc D (2013) Carbon footprint across the coffee
supply chain: the case of Costa Rican coffee. J Agric Sci Technol B3:151–170

Loveday, J., Morrison, G. M., & Martin, D. A. (2022). Identifying Knowledge and
Process Gaps from a Systematic Literature Review of Net-Zero Definitions.
Sustainability, 14(5), 3057. [Link]
Luu, H. (2023). Doanh nghiệp Việt bước vào cuộc đua Net Zero - Nhịp sống kinh tế Việt
Nam & Thế giới. VnEconomy. [Link]
[Link]

Nab, C., & Maslin, M. (2020). Life cycle assessment synthesis of the carbon footprint of
Arabica coffee: Case study of Brazil and Vietnam conventional and sustainable
coffee production and export to the United Kingdom. In Geo: Geography and
Environment (Vol. 7, Issue 2). Blackwell Publishing Ltd.
[Link]

Nguyen, A. T., Lu, S. H., & Nguyen, P. T. T. (2021). Validating and Forecasting Carbon
Emissions in the Framework of the Environmental Kuznets Curve: The Case of
Vietnam. Energies 2021, Vol. 14, Page 3144, 14(11), 3144.
[Link]

Nguyễn, T. H., & Lê, T. T. L. (2023). Phát thải khí nhà kính từ các vườn bưởi da xanh
(Citrus maxima Burm. Merr.) canh tác theo tiêu chuẩn thực hành nông nghiệp tốt của
Việt Nam và canh tác thông thường. Can Tho University Journal of Science,
59(Environment and Climate change), 31–41. [Link]

Nguyen-Duy, N., Talsma, T., Nguyen, K. T., & Do, C. T. (n.d.). Carbon assessment for
Robusta coffee production systems in Vietnam A case study in Dak Lak.
[Link]

Noponen Ab, M. R. A., Edwards-Jones, G., Haggar Bc, J. P., Soto, G., Attarzadeh, N.,
& Healey, J. R. (n.d.). Greenhouse gas emissions in coffee grown with differing
input levels under conventional and organic management.

Noponen MRA, Edward-Jones G, Haggar JM, Soto G, Attarzadeh N, Healey JR (2012)


Greenhouse gas emissions in coffee grown with differing input levels under
conventional and organic management. Agric Ecosyst Environ 151:6–15

PAS 2050 (2008) Specification for the assessment of the life cycle greenhouse gas
emissions of goods and services. British Standards Institution. Available at
[Link]
PAS-2050/

Plassmann, K., Norton, A., Attarzadeh, N., Jensen, M.P., Brenton, P., Edwards-Jones,
G., 2010. Methodological complexities of product carbon footprinting: a sensitivity
analysis of key variables in a developing country context. Environ. Sci. Policy 13,
393–404.

Plevin, R. J., Delucchi, M. A., & Creutzig, F. (2014). Using attributional life cycle
assessment to estimate climate-change mitigation benefits misleads policy makers.
Journal of Industrial Ecology, 18(1), 73–83.
Quispe, I., Vázquez-Rowe, I., Kahhat, R., Arena, A. P., & Suppen, N. (2016). Life cycle
assessment: A tool for innovation in Latin America. Journal of Life Cycle
Assessment, 22(4), 469–478.

Quispe, I., Vázquez-Rowe, I., Kahhat, R., Arena, A. P., & Suppen, N. (2017). Preface.
The International Journal of Life Cycle Assessment, 22(4), 469–478.
[Link]

Sala, S., Anton, A., McLaren, S. J., Notarnicola, B., Saouter, E., & Sonesson, U. (2017).
In quest of reducing the environmental impacts of food production and
consumption. Journal of Cleaner Production, 140, 387–398.
[Link]

Sala, S., Reale, F., Cristobal Garcia, J., Marrelli, L., & Pant, R. (2016). Life cycle
assessment for the impact assessment of policies. Luxembourg, Luxembourg:
Publications Office of the European Union.

Salomone R (2003) Life cycle assessment applied to coffee production: investigating


environmental impacts to aid decision making for improvements at company level.
Food Agric Environ 1(2):295–300

Sinden, G. (2009). The contribution of PAS 2050 to the evolution of international


greenhouse gas emission standards. In International Journal of Life Cycle
Assessment (Vol. 14, Issue 3, pp. 195–203). [Link]
0079-3

Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam. (2023, February 16). XUẤT KHẨU CÀ PHÊ: ĐIỂM
SÁNG TRONG NHIỀU THÁCH THỨC. Báo Điện Tử Chính Phủ.
[Link]
[Link]

Thuy, P. T. L. (2023). "Tiêu dùng xanh tại Việt Nam hiện nay: Thực trạng và phải
pháp". Tạp chí Công Thương - Các kết quả nghiên cứu khoa học và ứng dụng công
nghệ, Số 7 tháng 3 năm 2023. [Link]
[Link]

Văn Hiếu, N., & Hoàng Nam, N. (2021). Hiện trạng phát thải khí nhà kính tại Việt Nam:
Cơ hội và thách thức. Vietnam Journal of Hydrometeorology, 728, 51–66.
[Link]

van Rikxoort, H., Schroth, G., Läderach, P., & Rodríguez-Sánchez, B. (2014). Carbon
footprints and carbon stocks reveal climate-friendly coffee production. Agronomy
for Sustainable Development, 34(4), 887–897. [Link]
0223-8
Verchot LV, Hutabarat L, Hairiah K, van Noordwijk M (2006) Nitrogen availability and
soil N2O emissions following conversion of forests to coffee in southern Sumatra.
Glob Biogeochem Cycles 20: GB4008. [Link]

Vinyes, E., Gasol, C. M., Asin, L., Alegre, S., & Muñoz, P. (2015). Life Cycle
Assessment of multiyear peach production. Journal of Cleaner Production, 104,
68–79. [Link]

Walsh, M., & Williams, S. A. (2006). Agriculture, Forestry and Other Land Use 11
(Vol. 4).

World Bank. (2023). Agriculture Overview: Development news, research, data | World Bank.
World Bank Organization. [Link]

You might also like