Academia.edu no longer supports Internet Explorer.
To browse Academia.edu and the wider internet faster and more securely, please take a few seconds to upgrade your browser.
2018, Християнство и култура
…
14 pages
1 file
Diskutime, 2018
Në 104 vjetët e shtetit shqiptar, ngjarja më e rëndësishme politike e shtetërore mbetet Kuvendi i Vlorës (1912), me shpalljen e Pavarësisë dhe krijimin e shtetit. Proklamimi i pavarësisë, por edhe krijimi i qeverisë së parë, parlamentit të parë, sistemit të parë përfaqësues, legjislacionit të parë shqiptar, lidhjeve dhe marrëveshjeve të para me shtetet e tjera, e bëjnë simbolin e vitit 1912 unik dhe thelbësor për shekullin shqiptar. Në praktikat shtetërore, memoria që lidhet me etërit themelues dhe fillesat e shtetit zënë vend qendror dhe janë burim studimi, referimi, analize dhe reflektimi. Në përvojën shqiptare, kjo praktikë periodikisht nuk është respektuar. Disa prej periudhave dhe regjimeve e kanë injoruar memorien e pavarësisë për shkaqe ideologjike, disa të tjera për shkaqe subjektive që lidhen me raportin e historisë me bilancin praktik të rezultateve të saj. Përgjatë viteve 1913-1920, akti i Pavarësisë nuk mori rëndësinë e merituar, kryesisht për shkak të dështimit të përpjekjeve për jetësimin e shtetit, krizën e thellë që shoqëroi dëbimi me dhunë i Princ Wied-it dhe projektit perëndimor për Shqipërinë, pasojat e Luftës së Parë Botërore dhe pushtimin e territorit nga disa fuqi të huaja. Midis viteve 1920-1924 u bë jetësimi i shtetit, institucioneve, kushtetutës, ligjeve dhe bazës së tij funksionale, përfshirë elementin demokratik të konkurrencës, njohjes ndërkombëtare dhe rotacionit politik. Në këtë periudhë nuk jetonin më disa prej protagonistëve të Nëntorit 1912, disa vijonin të ishin protagonistë, kurse të tjerë u tërhoqën nga jeta politike e publike. Megjithatë, me përjashtime të vogla, kryesisht në raport me emra të veçantë me konotacion negativ, kjo periudhë solli rehabilitimin dhe vlerësimin shtetëror e publik të akteve të Pavarësisë dhe themelimit të institucioneve të para drejtuese e përfaqësuese të shtetit.
Hue University Journal of Science: Natural Science, 2018
Tóm tắt. Cá ong căng được thu thập trong 2 năm 2015 và 2016 ở vùng đầm phá Tam Giang-Cầu Hai với 342 cá thể khác nhau về độ tuổi, kích cỡ, khối lượng ở các vùng sinh thái đầm phá. Cá được bảo quản trong dung dịch formaldehyde 4% và đưa về phòng thí nghiệm của Viện Công nghệ sinh học phân tích đặc điểm sinh trưởng và dinh dưỡng. Kết quả phân tích cho thấy cá có kích cỡ biến động từ 2,6 cm đến 32,3 cm, khối lượng 0,4-540,0 g/con. Tương quan giữa chiều dài và khối lượng được biểu thị bằng phương trình 2 3,018 W 1,3335.10 .L với R 2 = 0,923. Kết quả cũng cho thấy thành phần thức ăn của cá ong căng trong đường tiêu hóa bao gồm cả động và thực vật phù du, các mùn bã hữu cơ và các loài cá nhỏ khác. Đây là loài cá ăn động vật và dữ, chúng ăn cả các loài cá khác. Thành phần thức ăn phân tích được gồm có 34 loại thức ăn khác nhau thuộc 8 nhóm thủy sinh vật và mùn bã hữu cơ. Trong đó, chiếm ưu thế là các loài thuộc ngành tảo Silic (chiếm 32,35%), tiếp đến là ngành chân khớp (chiếm 17,65%), giun đốt và động vật có dây sống cùng chiếm 11,76%, ngành tảo lam và động vật thân mềm đều chiếm 8,82%, tảo lục chiếm 5,88%.
The Indonesian Journal of Social Studies
One of the research topics which intrigues researchers in the subject areas of applied linguistics, international relations and politics is political discourse and the way it is perceived and represented in the media. Researchers have analysed and interpreted the political and international relations discourse of various politicians and diplomats in different countries. By the same token, Iran, as a country with an influence on the political issues of the Middle East and a role in international dynamics and trends, has devoted a plethora of research to itself where researchers have examined and critiqued the international and foreign policies of Iran in various periods of time, in relation to various countries and in connection with various political and international events and situations. However, a search carried out by the present researcher showed that there are not many publications on how the British mass media, newspapers in particular, perceive and represent the Iranian gov...
SCIENTIFIC JOURNAL OF TAN TRAO UNIVERSITY, 2021
Xinh Mun và Phoọng là một trong số các tộc người nói ngôn ngữ Môn - Khơ Me, cư trú ở Việt Nam và Lào. Họ cư trú tập trung ở khu vực biên giới phía bắc Việt - Lào. Các nhà nghiên cứu đều cho rằng, họ là cư dân cổ nhất ở vùng Bắc Đông Dương. Gần đây, nhiều dữ liệu cho phép nêu giả thuyết, Xinh Mun (Puộc) là cư dân nguyên xưa ở Lào, mãi sau này mới di cư sang các xã biên giới Tây Bắc. Các dữ liệu về xà na trong khuôn viên chùa Hòa Bình (Vạt Sẳn ti phạp) ở Phonxavan; Ngã ba Xana Pu Khun (mường Ka Si, Xiêng Khoảng); Xà na trong lễ hội thi trống của người Poọng (Phoọng) ở Mường Khăm; Xà nà trong tang ma của người Xinh Mun ở Yên Châu (Sơn La)... Cho phép bước đầu khẳng định, văn hóa Xing Mun, nhất là nhóm Puộc Nghẹt, mang nhiều yếu tố văn hóa ở bắc Lào, nhất là văn hóa Phật Giáo...
SCIENTIFIC JOURNAL OF TAN TRAO UNIVERSITY
Để hiểu được sự phát triển của công tác thông tin đối ngoại ở Việt Nam, bài viết này đã khảo sát hoạt động thông tin đối ngoại của Hồ Chí Minh - người đã đặt nền móng cho hoạt động này. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm đến tuyên truyền thông tin đối ngoại, coi đó là một phần quan trọng của công tác ngoại giao và công tác tuyên truyền. Bằng nhiều hình thức khác nhau, Hồ Chí Minh đã cung cấp nhiều thông tin hai chiều về Việt Nam cho thế giới và thông tin thế giới tới người dân Việt Nam. Những thông tin này đã góp phần lớn vào nâng cao nhận thức cho người dân Việt Nam về các vấn đề quốc tế, tạo sự đồng thuận trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; tuyên truyền đường lối ngoại giao của Đảng, thể hiện rõ quan điểm chính trị của Việt Nam trong xây dựng mối quan hệ giữa các nước và giải quyết các vấn đề quốc tế thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945.
Hue University Journal of Science: Social Sciences and Humanities
Tóm tắt. Tiểu thuyết Không số phận (Sorstalanság) kể lại hành trình của Köves Gryörgy qua các trại tập trung của Đức trong chiến tranh thế giới thứ II. Những nếm trải của anh ta đã hé lộ góc khuất của bản chất cuộc chiến và số phận người Do Thái. Một mặt trận ít tiếng súng nhưng khốc liệt vô cùng, ở nơi đó bi kịch chiến tranh được phơi bày sáng rõ nhất. Trong bài báo này, chúng tôi tìm hiểu vấn đề chiến tranh trong tiểu thuyết Không số phận dưới góc nhìn văn hóa lịch sử để đem đến một phần kiến giải về cuộc hành trình tìm kiếm bản thể con người sau Thế chiến thứ II. Từ khóa. Không số phận, Köves Gryörgy, trại tập trung, chiến tranh thế giới thứ II, Do Thái Thế chiến thứ hai không chỉ là cuộc chiến thảm khốc nhất trong lịch sử nhân loại với tổng số nạn nhân lên tới 62 triệu người, mà còn để lại nhiều biểu tượng kinh hoàng của sự chết chóc, hủy diệt, sụp đổ của nền văn minh và văn hóa châu Âu hiện đại, như Auschwitz, Buchenwald, Holocaust, genickschuss (phát súng ân huệ), crematorium hay các lager… Tại các quốc gia Đông Âu, sau mấy chục năm bị coi là đề tài "nhạy cảm", dễ "đụng chạm" và gây nhiều nguy hại tới "sự đồng thuận trong xã hội". Đến nay, Holocaust không còn là đề tài độc tôn của các nhà nghiên cứu mà đã đi sâu vào tâm thức xã hội như một trong những thảm kịch diệt chủng của nhân loại. Không số phận được tác giả thai nghén trong vòng 13 năm (1960-1973), giữa những điều kiện khó khăn và bị o ép về mặt chính trị, không được chính quyền thừa nhận. Tiểu thuyết Không số phận gần như là một tự truyện của Kertész Imre về quãng thời gian ông sống trong trại tập trung Đức Quốc xã. Nhân vật chính là một thiếu niên bị đày ải hết từ trại tập trung này sang trại tập trung khác, cho đến khi cậu được quân Đồng minh giải phóng. Tuy nhiên, điều đặc biệt kỳ lạ của thiên tiểu thuyết-tự truyện này là ở chỗ: được viết ở độ tuổi trung niên, khi tác giả đã nếm trải điều kinh hoàng, và do đó, hẳn đã hiểu quá rõ bản chất của chủ nghĩa Quốc xã cũng như Holocaust, nhưng ông lại viết về lò thiêu với tâm thế của người lần đầu tiên được nhìn thấy cái gì đó mới mẻ. Điểm hấp dẫn, lôi cuốn của tác phẩm là không nhằm đặc tả, hay cố ý xây dựng những nỗi kinh hoàng, những thảm cảnh mà các nhân vật trải
Revista do Curso de Direito do UNIFOR, 2020
O estudo abrangerá a incidência do recurso dos embargos infringentes e de nulidade no Direito processual penal brasileiro, com a análise dos principais pontos que circundam esse thema, verificando-se a diferenciação entre a ocorrência da infringência e da nulidade no recurso direcionado à reunião de Câmaras e Turmas, e qual essa importância de separação entre as temáticas possíveis a serem revisitadas; a partir dessa inserção teórica, o desafio será o de decompor a (assim chamada) proposta do “projeto anticrime”, trazida pelo Ministério da Justiça no início de fevereiro de 2019, justamente quanto à iniciativa de limitação em relação ao recurso de embargos infringentes e de nulidade, a fim de que, na sequência do texto, possam ser realizadas críticas necessárias ao referido projeto, especialmente no ponto de abrangência dessa espécie de embargos em matéria penal, e se permita indicações sobre o acerto ou o desacerto dessa medida de modificação, já direcionada às Casas Legislativas. P...
VNU Journal of Science: Legal Studies, 2017
Tóm tắt: Không được ghi nh n ng y từ đầu chỉ được suy r từ quyền bất khả xâm phạm nhà cử quyền riêng tư nh nh chóng trở thành quyền con người qu n tr ng trong hệ th ng các quyền con người củ một s qu c gi phát triển. Tiếp thu thành quả đó iên hợp qu c tr ng tr ng ghi nh n quyền này trong Bộ lu t hân quyền củ mình. Với tư cách là qu c gi thành viên củ nhiều Công ước qu c tế về nhân quyền Việt m không chỉ ghi nh n mà còn tìm nhiều biện pháp khác nh u để bảo vệ quyền này trong một môi trường kinh tế chuyển đổi. Từ khóa: uyền con người; quyền riêng tư; quyền bất khả xâm phạm nhà ở.
Journal of Computer Science and Cybernetics, 2018
Journal of Computer Science and Cybernetics, 2018
Loading Preview
Sorry, preview is currently unavailable. You can download the paper by clicking the button above.
Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ
Tạp chí Nghiên cứu dân tộc, 2020
VNU Journal of Science: Legal Studies, 2017
2010
Dong Thap University Journal of Science
Tạp chí Nghiên cứu dân tộc
Tập san Khoa học và kỹ thuật trường Đại học Bình Dương, 2022
Tạp chí Khoa học, 2019
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Trường Đại học Hùng Vương
Journal of Computer Science and Cybernetics, 2016
FAIR - NGHIÊN CỨU CƠ BẢN VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN 2015, 2016
Tạp chí Khoa học, 2019
Tạp chí Khoa học, 2021